Thiền Viện Khánh An Quận 12

Thiền Viện Khánh An Quận 12

PSO - Tối ngày 23/9/2023, chư Tăng tu viện Khánh An (quận 12, TP.HCM) đã tổ chức đêm Thiền trà với chủ đề “Tâm Trăng” nhân Tết Trung thu.

PSO - Tối ngày 23/9/2023, chư Tăng tu viện Khánh An (quận 12, TP.HCM) đã tổ chức đêm Thiền trà với chủ đề “Tâm Trăng” nhân Tết Trung thu.

Một số cách để bạn có thể bắt đầu ngay bây giờ

Để giúp bạn có cảm hứng thực hành thiền định và thiết lập thành thói quen trong lịch trình mỗi ngày. Dưới đây là một số cách để bắt đầu:

“Thất niệm là bóng đêmChánh niệm là ánh sángĐưa tỉnh thức trở vềCho thế gian tỏ rạng.”

Hoặc mỗi khi bạn nhớ đến hơi thở:

“Thở vào, thở raLà hoa tươi mátLà núi vững vàngNước tĩnh lặng chiếuKhông gian thênh thang.”

Trích thiền tập cho người bận rộn. Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Mỗi hành động có chủ ý chuyển thành chánh niệm sẽ củng cố bộ não có ý thức của bạn ngày càng mạnh mẽ hơn.

Trường Tiểu học Trần Quốc Toản quận 12 khánh thành

Hôm nay, ngày 4/9 thầy cô và học sinh Trường Tiểu học Trần Quốc Toản (quận 12, TP.HCM) đã đón nhận niềm vui trọn vẹn khi nhà trường đồng thời tổ chức lễ khánh thành và khai giảng năm học mới.

Hỏi: Kính thưa Thầy, tại sao con diệt ngã xả tâm mãi mà không sạch?

Đáp: Cô Út thương con như một bà mẹ, biết rõ bản ngã con to lớn như núi. Nó to lớn theo sự công phu thiền định tu tập của con. Vì trong tu viện, con là người tu tập thiền định ngồi lâu, nhiếp tâm nhiều năm tháng, nên có vững vàng hơn mọi người. Và do những điều kiện tu tập này mà con cứ ngỡ rằng mình tu đúng, nên bản ngã của con thêm lớn. Và vì thế, lòng tự đắc của con càng cao; con không bao giờ chịu nghe lời cô Út sửa sai, cứ dựa vào Thầy, cho rằng cô Út Diệu Quang chẳng biết gì về pháp tu. Nhưng con phải biết, một người mà Thầy đề nghị đứng ra để hướng dẫn quý vị tu tập là phải có đủ bản lĩnh. Nếu không, chắc là Thầy không giới thiệu cô Út Diệu Quang cho quý vị. Cô Út Diệu Quang rất biết tâm niệm con, nhưng không nản chí, cố tìm mọi kẽ hở của con để đập phá. Cái ngã chấp vô minh đen tối muôn đời mà con chẳng biết, thường lý luận, che đậy diệt ngã, xả tâm. Càng đập phá thì tâm con càng bị nén, rồi dùng hạnh không nói, tức là á khẩu mà người không hiểu gọi là hạnh độc cư, chứ hạnh độc cư mà Thầy đã dạy là pháp phòng hộ sáu căn.

Con chưa nhận rõ đường lối tu tập của đức (78) Phật là xả tâm, nên thay vì xả tâm, con lại cố nhiếp tâm tỉnh giác. Trong lúc Thầy đang dạy quý vị tu tập là ở giai đoạn đầu: “NGĂN ÁC, DIỆT ÁC PHÁP” để Ly Dục, Ly Bất Thiện Pháp, thì con không tu tập mà lại tu ở giai đoạn II và III. Đó là những giai đoạn Thiền định và Lậu Tận Minh. Do sự hiểu biết lầm lẫn này, con đã tu sai pháp nên bị ức chế tâm luôn chịu đựng, vì thế vô tình con đã nuôi lớn bản ngã của mình. Do ức chế tâm, chuyên tu tỉnh thức, con đã rơi vào Định tưởng; pháp tưởng xuất hiện, nên con sinh ra nhiều lý giải, nhiều lý luận. Nói thì hay, luận thì giỏi, nhưng xả tâm thì dở, nên bản ngã to lớn, vì thế oai nghi tế hạnh của con không được trọn vẹn, lời nói thiếu ôn tồn, hòa nhã, êm dịu; chỉ làm thinh, im lặng chịu đựng. Nên con cần phải sửa chữa lại nhiều hơn, tốt hơn.

Con nên biết, toàn bộ giáo lý đạo Phật, hơn chín mươi phần trăm đều dạy ly dục, ly bất thiện pháp, chớ không phải tu thiền điên, tu thiền khùng như con, chỉ lo ức chế tâm, nhiếp tâm an trú tâm; chỉ biết nhiếp tâm ở giai đoạn Thiền định và để thực hiện giai đoạn trí tuệ vô sư, vô lậu Tam Minh. Đức Phật luôn xả tâm, không nén tâm, vì thế Ngài đã sống khổ hạnh sáu năm, ly dục, ly bất thiện pháp. Con hãy xét lại kỹ, từ ngày tu theo Phật, con thường sống theo ý muốn của mình từ cái ăn, cái mặc, cái ngủ, cái ở, đều theo ý muốn (79) của con, vì vậy, càng nuôi lớn dục. Hình thức bên ngoài, con ly ý muốn, vật dụng, nhưng nội tâm bên trong, con không ly ý muốn của mình. Ý muốn là tâm dục của con. Con hãy nghe lời dạy trong băng mà thiết lập đường lối tu tập có đầu, có đuôi, có dễ, có khó, chớ không phải tu lộn xộn như thế này được nữa. Đừng có nhắm vào Thiền định mà không có Định gì được cả, mà phải nhắm vào Đức hạnh và Giới luật của Phật để xả tâm, để ly ác pháp. Tu tập phải biết phương pháp và cách thức: Tu cái gì trước, tu cái gì sau; làm cái gì trước, làm cái gì sau; xả cái gì trước, xả cái gì sau; đương đầu với cái gì trước, đương đầu với cái gì sau; LY như thế nào; DIỆT như thế nào; XẢ như thế nào.

Những bức thư con đã trình bày trong tập nhật ký thời khoá về sự ly dục, về hơi thở, cách thức tu tập còn lộn xộn, đầu đuôi chưa phân minh. Cũng vì thế mà mỗi lần bị động, hay bị trắc nghiệm thì con thấy bất an, thường nén tâm chịu đựng, hoặc ôm hơi thở chịu đựng, hoặc dùng ý niệm thiện pháp, và nhờ thời gian làm giảm đi sự bất an đó. Vì thế, con cần phải được thiết lập đường lối, cách thức tu tập rõ ràng, để đương đầu với mọi sự, mọi việc khó khăn và nghiệp chướng, khiến cho nó có thể hóa giải ngay; không thể nén tâm, tức nước vỡ bờ như đã xảy ra trong những lần trắc nghiệm tuyển thi trước. Mỗi lần Thầy nhắc cô Diệu (80) Quang: hãy xem cô Minh Cảnh nhiếp tâm tốt mà tuyển thi, chọn cô tu tập lên lớp trên. Nhưng mỗi lần tuyển thi, con đều rớt. Cuối cùng con tưởng rằng mình đã xả tâm, diệt ngã, không ngờ tâm ngã còn chấp khư khư.

Bây giờ con không nên quan tâm về việc tọa thiền, mà phải nỗ lực tu tập về ly dục, ly bất thiện pháp. Cốt tủy Thiền định, hay nói một cách khác, nền tảng Thiền định của đạo Phật là chỗ ly dục, ly bất thiện pháp. Nếu không hiểu thì con nên hỏi kỹ lại cô Diệu Quang, để tu tập xây dựng một con người đạo đức chân thật, giải thoát trong đạo Phật. Đừng thưa hỏi lòng vòng, mà phải thưa hỏi đúng cách, đúng pháp, đúng giai đoạn tu tập, thì tu tập mới có kết quả tốt. Thưa hỏi lòng vòng là đem kiến giải, tưởng giải trong kinh sách ra thưa hỏi thì không đúng; phải thưa hỏi ngay chỗ tu của mình, chỗ xả tâm làm sai, chỗ không đúng thời khoá tu tập của mình, thì được Thầy giảng dạy ngay. Còn hỏi lòng vòng không đúng cách thì không được giảng dạy.

Hỏi: Kính bạch Trưởng Lão Thích Thông Lạc!

Xin Thầy cho phép con được hỏi: Kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Không cho phép một vị tu sĩ nói mình tu chứng quả, dù vị đó đã thật chứng cũng phải giữ bí mật, mà không được nói ra cho tín đồ biết”. Con được biết Trưởng Lão đã làm chủ được sinh, lão, bệnh, tử, trong những thời pháp được phát hành trong đĩa, như vậy có trái lời Phật dạy không, hay là do kinh sách phát triển của mấy tổ biên soạn cấm chế?

Thành kính đảnh lễ Trưởng Lão - Con, Giác Quang.

Đáp: Kinh Thủ Lăng Nghiêm dựng lên một Phật tánh ảo tưởng (tánh thấy, tánh nghe, tánh biết) của ba Thức trong nhóm sáu Thức của thân (87) tứ đại. Vì thế làm sao người ta tu chứng được, do không ai tu chứng, nên kinh khéo che đậy: “Người nào tu chứng mà nói mình tu chứng là chưa tu chứng”.

Xưa đức Phật tu chứng, Ngài đã tuyên bố ngay liền:

(Làm chủ) sinh, già, bệnh, chết”

Đức Phật đã xác định pháp môn tu tập của Ngài chứng đạt làm chủ thân tâm cụ thể, thiết thực, lợi ích cho loài người rõ ràng như vậy, chứ đâu như “Kiến tánh thành Phật” của Thiền tông và Đại thừa. Cho nên, qua lời xác định này của Phật, các Tổ Đại thừa quá sợ hãi bốn câu kệ trên. Các Tổ hữu ý nên chỉ lấy hai câu đầu trong bài kệ bốn câu, dựng lên huyền thoại Phật đản sinh: Khi đức Phật vừa sinh ra, đi bảy bước, tay chỉ trời, tay chỉ đất và nói: “Thiên thượng, thiên hạ. Duy ngã độc tôn”. (88)

Đó là một điều đã làm của các Tổ, dám cắt xén lời Phật dạy thành câu chuyện không thực tế, thiếu thiết thực, không khoa học.

Cho nên đạo Phật ra đời không dạy người tu làm Tiên, làm Phật; không dạy người tu thần thông phép thuật để làm trò du hý không ích lợi, lừa đảo người.

Đạo Phật ra đời dạy người sống không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh: “Chư ác mạc tác chúng thiện phụng hành”, hoặc: “Ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp”, hoặc: “Ly dục, ly ác pháp, nhập Sơ thiền”, hoặc: “Thấy lỗi mình không thấy lỗi người”…​ Con đường tu tập theo giáo pháp nguyên thủy của đức Phật, mà trong kinh Nikaya dạy, là làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sinh luân hồi một cách cụ thể, rõ ràng; từng bước tu tập có Pháp Dẫn Tâm, có Tri Kiến chỉ đạo hẳn hoi; chứ không như kinh sách Đại thừa và Thiền tông dạy tu tập nhiếp tâm, ức chế tâm một cách chung chung; tu mà không biết mình tu tới đâu, giống như người đi trong đêm tối không đèn đuốc mờ mịt. Pháp môn nguyên thủy của đạo Phật luôn đem lại sự lợi ích cho loài người một cách thiết thực cụ thể, không mơ hồ trừu tượng như kinh sách phát triển.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một loại kinh tưởng, (89) kinh không phải Phật thuyết, mà do các Tổ biên soạn, mượn danh Phật thuyết để mọi người lầm lẫn tin tưởng. Cho nên kinh khéo léo che đậy bưng bít, khiến cho phật tử không biết vị tỳ kheo nào tu chứng, vị tỳ kheo nào tu chưa chứng: “Kẻ nào tu hành còn thấy mình tu chứng là chưa chứng!” (Vô sở đắc).

Người tu chứng nói ra mình tu chứng là nói sự thật, thì có mắc tội gì trong Giới luật của đạo Phật đâu! Phải không quý phật tử? Ngày xưa khi đức Phật tu chứng, Ngài cũng tuyên bố cho mọi người biết, như vậy có sai chỗ nào đâu? Chỉ có những người chưa tu chứng mà nói mình tu chứng, mới là mắc tội vọng ngữ trong Giới luật Phật. Có đúng không quý phật tử?

Do kinh sách Đại thừa để lại những điều phi Phật pháp, khiến chúng ta mới thấy sự cố ý diệt Phật giáo của các Tổ. Các Tổ đã để lại một pháp môn làm hao tài tốn của, tốn công sức của bao nhiêu thế hệ mai sau, tu hành chẳng ra gì. Hình ảnh đau đớn nhất của Phật giáo hiện nay là các sư thầy không sống đúng Giới luật, không lo tu chứng đạo, mà người nào cũng tu danh (bằng cấp), tu lợi (tiền bạc), tu xây chùa to, tu đúc tượng Phật lớn, và chạy theo ngũ dục lạc, ăn ngủ phi thời. Cho nên thời nay tìm một vị tu hành làm chủ sinh, già, bệnh, chết rất khó. (90)

Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một loại kinh chịu ảnh hưởng kinh sách Vệ Đà, do kiến giải của các Tổ Bà La Môn. Xin quý phật tử hãy trở về nghiên cứu những kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pali sang tiếng Việt, với đầy đủ nghĩa lý, vì bản dịch của Ngài còn giữ song ngữ để đối chiếu.

Đây là lời nói chân thật của một người tu hành đã làm chủ được sanh, già, bệnh, chết; nếu quý vị tin thì sẽ có lợi ích cho quý vị, còn không tin thì thôi, chẳng có sao cả.

Thăm và chúc Giác Quang mạnh, nhớ sống đúng Giới Đức Hiếu Sinh, không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh, thì ngay đó là giải thoát.

Hỏi: Thưa đức Trưởng lão Thích Thông Lạc, có nhiều điều con muốn hỏi Thầy, nhưng con ngại mất thời gian của Thầy, và con thấy sức tu của con còn kém, cho nên con sẽ cố gắng suy tư nhiều hơn trước khi hỏi. Nhưng con cũng xin phép Thầy cho con ghi những câu hỏi ra đây, để khi nào có dịp con sẽ gởi những câu hỏi này cho Thầy. Còn chuyện trả lời thì tùy Thầy, vì Thầy biết lúc nào trả lời, lúc nào (91) không. Có lẽ cái tính ham muốn hiểu biết của con mạnh quá, cho nên hay thắc mắc. Xin Thầy hoan hỷ tha tội cho con.

Câu hỏi 1: Đức Phật có dạy: “Cái thấy, cái nghe không phải của ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta”.

Vậy cái thấy ở đây có phải là cái biết của tính thấy hay không?

Cái nghe ở đây có phải là cái biết của tính nghe hay không?

Cái biết ở đây có phải là cái biết của ý thức hay không?

Nếu phải, thì có thể gộp chung là cái biết không phải là ta, không phải là của ta và không phải là bản ngã của ta? Cái biết ở đây là cái biết của 6 thức. Vậy tại sao không thấy đức Phật nói về cái biết của mùi, vị và xúc?

Xin Thầy giải thích rõ hơn cho con về điều này.

Đáp 1: Đức Phật đã dạy SÁU THỨC rõ ràng:

1- Cái thấy ở đây là CÁI THẤY CỦA MẮT, gọi là cái thấy của nhãn căn, chứ không phải cái biết của tính thấy nào cả.

Cái thấy biết ở đây là cái thấy biết của mắt, gọi là NHÃN THỨC. (92)

2- Cái nghe ở đây là CÁI NGHE CỦA TAI, gọi là cái nghe của nhĩ căn, chứ không phải cái biết của tính nghe nào cả.

Cái nghe biết ở đây là cái nghe biết của tai, gọi là NHĨ THỨC.

3- Cái biết ở đây là CÁI BIẾT CỦA Ý THỨC, chứ không phải cái biết ở đây là cái biết của tính biết nào cả.

Cái biết ở đây là cái biết của ý căn, nên gọi là Ý THỨC.

Phật thường dạy SÁU CĂN, SÁU TRẦN và SÁU THỨC, nhưng quý vị không lưu ý, nên không nhớ. Sáu căn, sáu thức, sáu trần gồm có:

Nhãn Căn là con mắt; Nhãn Thức là cái biết của con mắt; Nhãn Trần là hình sắc của vạn vật.

Nhĩ Căn là lỗ tai; Nhĩ Thức là cái biết của lỗ tai; Nhĩ Trần là âm thanh của vạn vật.

Tỷ Căn là lỗ mũi; Tỷ Thức là cái biết của lỗ mũi; Tỷ Trần là hương vị của vạn vật.

Thiệt Căn là miệng lưỡi; Thiệt Thức là cái biết của miệng lưỡi; Thiệt Trần là mùi vị của vạn vật.

Thân Căn là cơ thể; Thân Thức là cái cảm giác của cơ thể; Thân Trần là tính mềm, cứng, nóng, lạnh của vạn vật. (93)

Ý Căn là bộ óc (tri thức); Ý Thức là sự phân biệt của bộ óc; Ý Trần là từng tâm niệm quá khứ, vị lai và hiện tại.

Sáu căn, sáu trần, sáu thức mới đầy đủ 18 giới của Phật giáo, để tạo thành duyên những Xúc, Hữu, Thủ, Sinh, Ưu bi sầu khổ già chết. Muốn biết rõ các duyên này, nên đọc Thập Nhị Nhân Duyên. Người ta ít nói về Mùi, Vị và Xúc, thì đó là một sự thiếu sót, chứ trong kinh Phật dạy rất đầy đủ. Nhưng khi chúng ta học thì hay nhắc đến Sắc, Thinh, Hương (mùi) là xong, còn ít ai nói đến Vị (cay, đắng, ngọt, bùi), Xúc (cảm giác êm, ấm, cứng, mềm), Pháp (những niệm trong tâm, vọng niệm).

Câu hỏi 2: Khi ăn cơm có phải bắt buộc phải ngồi dưới đất hay không? Vì con thấy mỗi lần ngồi dưới đất ăn cơm thì kiến nhiều quá, cho nên con chuyển sang ngồi trên ghế. Con không biết có phạm giới hay không?

Đáp 2: Ngồi dưới đất ăn là khất sĩ, vì đức Phật đã buông xả sạch, sống không nhà cửa, không gia đình, không có của cải tài sản tiền bạc, chỉ còn ba y một bát, đi xin về ăn hàng ngày. Vì thế khi xin có thức ăn, liền tìm nơi nào có bóng mát ngồi ăn (94)cho tiện. Còn ngồi ăn trên bàn ghế là lại thêm có bàn ghế, thì đâu gọi là đời sống ba y một bát. Khi có phật tử cúng dường tại nhà, mời Phật và chúng Thánh tăng đến thọ trai, thì Phật và chúng Thánh tăng vẫn ngồi trên bàn ăn uống hẳn hoi, nhưng ăn rồi thì đi về, còn bàn ghế thì chủ nhà sẽ dọn dẹp. Cho nên ăn ngồi dưới đất tiện hơn ngồi trên bàn, vì ăn rồi chỉ có đi rửa bát là xong, không có lau bàn, lau ghế, cho nên rất tiện lợi, không thêm bận rộn, khiến cho đời sống luôn luôn VÔ SỰ. Mục đích sống giải thoát ra khỏi cuộc đời này là tâm phải vô sự.

Ngồi dưới đất hay ngồi trên bàn ghế không có phạm giới, nhưng ngồi dưới đất ăn cũng là Phạm hạnh của người tu. Đó là một oai nghi diệt ngã xả tâm; một tế hạnh buông xả. Có bàn ghế mà ngồi dưới đất ăn là không thức thời, cố chấp.

Câu hỏi 3: Nhân quả của một người đặt tình thương không đúng chỗ là gì?

Đáp 3: Đặt tình thương không đúng chỗ là đặt tình thương theo thất tình, lục dục. Đó là đặt tình thương theo ác pháp; tình thương đó là tình thương trong đau khổ: khổ mình, khổ người. Con có biết thất tình, lục dục là gì chưa?

Thất tình gồm có: Hỷ, Nộ, Ái, Ố, Ai, Lạc, Dục.

Lục dục gồm có: Nhãn dục, Nhĩ dục, Tỷ dục (95), Thiệt dục, Thân dục, Ý dục.

Khi đặt lòng yêu thương phải quan sát kỹ lòng yêu thương ấy có rơi vào bảy tình, sáu dục này không. Nếu rơi vào thì lòng yêu thương này sẽ có sự khổ đau.

Ví dụ: Lòng ghen tuông cũng là lòng yêu thương do ái dục, nên làm mình khổ, người khác khổ. Lòng yêu thương ấy gọi là lòng yêu thương khổ.

Câu hỏi 4: Ví dụ bố thí sai thì nhân quả là gì? Bố thí vì lòng yêu thương, nhưng sau đó biết rằng bố thí nhầm cho đối tượng thì nhân quả là gì?

Ví dụ một lần con đang chạy xe ở thành phố Vũng Tàu, con thấy một anh thanh niên nằm bên lề đường quằn quại ôm bụng trông rất tội nghiệp, như người đau dạ dày. Con ngừng xe lại và quay lại ân cần hỏi thăm, và tính chở anh ta đi bệnh viện. Anh ta không đi, mà vẫn nằm ôm bụng rên la. Đến giờ con phải đi làm, cho nên con cho anh ta tiền gọi xe đến bệnh viện và tiền chữa bệnh, và nhờ ông chủ nước ngay đó nếu cần thì gọi xe dùm, rồi con đi làm. Sau vài tháng, con thấy anh ta ở Sài Gòn cũng với tình trạng như vậy. Lần này con đặt câu hỏi không biết thật hay giả đây? Nhưng (96) con nghĩ thôi, thật hay giả thì coi như đã giúp một lần, và tự an ủi rằng ít ra mình không thờ ơ trước những cảnh khổ của người khác, và con tiếp tục đi không dừng lại nữa. Con đặt giả thuyết nếu như anh ta đóng kịch, thì coi như việc con làm là đặt tình thương không đúng chỗ, sai lệch. Vậy thì có đáng trách là con thiếu tỉnh giác hay không?

Đáp 4: Bố thí không đúng pháp là bị người lừa gạt, nên không làm lợi ích cho mình, vì mình bị gạt; không làm lợi ích cho người, vì tạo duyên cho người làm ác nhiều hơn (lường gạt người khác).

Trong đức bố thì đều do lòng yêu thương, nó là nhân quả thiện, nhưng nếu thiếu trí tuệ quan sát, đối tượng được bố thí không thiện mà bố thí, thì đó là NHÂN QUẢ ÁC, vì tạo duyên cho người làm ác nhiều hơn. Trường hợp của con, bố thí bị lừa gạt như đem hạt giống tốt gieo trên đất xấu, khô, cằn cỗi.

Theo Phật giáo nguyên thủy, bố thí phải có trí tuệ nhân quả. Khi thấy một người tàn tật hay gặp một người bị tai nạn, hoặc một người ốm đau không tiền thang thuốc, đi bác sỹ, hay đi bệnh viện; đây là nhân quả của những người này, họ đang trả vay, nhưng có nhân duyên kiếp trước nên kiếp này mới gặp ta trong hoàn cảnh này. Vậy ta nên giúp đỡ họ như thế nào cho đúng pháp? (97)

Thấy người tàn tật, biết rõ họ thật sự tàn tật thì giúp đỡ, còn gặp họ ở giữa đường thì ta nên tránh, vì người tàn tật đều có chỗ ở do các nhà từ thiện hoặc Nhà nước giúp, còn tàn tật ở ngoài đường là giả dối. Người tàn tật ở ngoài đường đi xin ăn làm nhục đất nước đó. Chúng ta không nên cho những người ăn xin ngồi đường. Người tàn tật bất hạnh trong xã hội đều có nhà dưỡng lão, nhà nuôi trẻ mồ côi, nhà nuôi những người khuyết tật, nhà tình thương nuôi dạy trẻ lang thang, v.v…​ Đó là trách nhiệm của Nhà nước, của những nhà từ thiện. Như vậy, đâu có cớ nào lại có người ăn xin ngoài đường. Người bố thí cho kẻ ăn xin ngồi đường là không đúng pháp, đó là bố thí vô tình tạo thêm những người lừa gạt người khác, và cũng vô tình làm nhục đất nước (đất nước ăn mày).

Còn bố thí cho người bệnh tật thì không nên trao tiền cho họ, mà đưa họ vào bệnh viện, đi bác sỹ, nếu bác sỹ bảo đó là bệnh thật thì chúng ta mới bỏ tiền ra bố thí, còn nếu chúng ta bận việc không đưa đi bác sỹ hay bệnh viện thì không nên bố thí. Bố thí là giúp người, mà giúp người thì phải đem hết lòng ra giúp, chứ không thể bố thí theo kiểu lấy có. Bố thí như vậy là tạo duyên cho kẻ ác làm ác thêm (lừa đảo).

Câu hỏi 5: Thật ra mà nói, con chưa hiểu rõ (98) cách làm sao để tránh trường hợp đặt tình thương không đúng chỗ. Ví dụ trong Tu Viện có 2 người con thấy rất thương họ, đó là cô Nguyên Thanh và sư Chơn Niệm. Tại sao con thương họ? - Vì con thấy mọi người ai cũng không thích hai người này.

Đáp 5: Đặt tình thương đúng chỗ là đặt tình thương trong thiện pháp, nhưng tình thương của Phật giáo là tình thương đa hướng, nên hướng thiện hay hướng ác đều đặt tình thương được cả. Thương yêu, thương xót, thương hại mọi người, chứ không phải thương nhân quả của mọi người. Cho nên nhân quả họ làm là họ phải gánh chịu, còn riêng chúng ta thương thì chúng ta chỉ mong họ thấy được nhân quả, để đừng sử dụng nhân quả ác làm khổ mình, khổ người. Nguyên Thanh và Chơn Niệm đều đáng thương, vì chúng ta biết chắc là hai người chuyển mình theo không kịp lớp tu học, nên có những cảm nghĩ và hành động sai lệch, khiến cho họ phải lìa xa các lớp học, vì vậy mà mọi người không thương.

Câu hỏi 6: Con chỉ có dịp học chung với sư Chơn Niệm khoá đạo đức này thôi, nhưng con không xem trọng những gì Sư làm sai, nói sai, mà chỉ để ý đến những mặt tốt của Sư để học hỏi thôi, và lấy Sư làm đối tượng trong lớp để xả tâm. (99) Nhưng hình như con đặt tình thương không đúng chỗ thì phải, vì con thấy mọi người đều khuyên Sư sửa cái này sửa cái kia, còn con thì không nói trước lớp, mà chỉ gặp riêng thôi để tránh làm mất sự đoàn kết trong lớp. Và con thấy rất tội nghiệp cho Sư, khi bị Thầy đưa ra quyết định vừa rồi.

Xin Thầy chỉ dạy cho con biết làm sao để biết là mình đặt tình thương không đúng chỗ và sai lệch. Thật tình mà nói, ai con cũng thấy thương hết, và con không muốn để trong tâm hình ảnh xấu về ai cả.

Đáp 6: Hình ảnh xấu xa của họ là hình ảnh của nhân quả ác. Đã biết là nhân quả thì còn để ý hành động ác đó để làm gì. Cho nên thương người mà thấy cái xấu của người khác thì làm sao thương người được, cái khó nhất là thấy cái tốt của người khác, cái dễ nhất là thấy cái xấu của người khác.

Học đạo đức mới thấy rõ mình là người thiện hay là người ác, nếu mình thấy lỗi người, nói lỗi người thì mình là người bất thiện, người ác; nếu thấy lỗi người mà không nói lỗi người, không bới móc lỗi người khác là người thiện.

Câu hỏi 7: Giới đức và Giới hạnh phân biệt như thế nào? (100)

Đáp 7: Muốn phân biệt giới đức và giới hạnh thì nên phân biệt ĐỨC và HẠNH. Đức là chỉ cho những TÍNH THIỆN, còn hạnh chỉ cho những oai nghi tế hạnh thuộc về HÀNH ĐỘNG THIỆN. Cùng một danh từ đạo đức, có lúc ta gọi là đức, có lúc ta gọi là hạnh, do sự công dụng đạo đức lúc ở đức hay lúc ở hạnh mà gọi; do sử dụng danh từ đạo đức lúc dùng làm chủ từ thì gọi là Đức; lúc dùng làm động từ thì gọi là Hạnh. Cho nên phân biệt giới đức và giới hạnh đòi hỏi chúng ta phải có tri kiến thấm nhuần đức hạnh, thì biết lúc nào là đức và lúc nào là hạnh. Cho nên chúng ta càng học đạo đức thì càng thấm nhuần.

Ví dụ 1: “Thương người như thể thương thân”, câu này dạy Đức Hiếu Sinh khẩu hành…​

Ví dụ 2: Chúng ta nên thương yêu mọi người vì mọi người quá đau khổ trong cơn bão số 9 vừa qua. Câu này dạy Đức Hiếu Sinh khẩu hành…​

Hai câu trên là lời kêu gọi nên nó mang tính chất đạo đức, nên gọi là Đức.

Ví dụ 3: Chúng ta đem thực phẩm, quần áo cứu trợ cho đồng bào bị hỏa hoạn tại chợ Quy Nhơn. Câu này dạy Hạnh Hiếu Sinh thân hành.

Tại sao câu này gọi là Hạnh Hiếu Sinh? - Vì đó là hành động đi cứu trợ. (101)

Câu hỏi 8: Nằm giường cao là sao? Trong phòng con có cái giường, khi con ngồi lên thì “hổng chân”, vậy thì có phải gọi là cao không Thầy?

Đáp 8: Để biết giường cao hay thấp, trong Giới luật có dạy kích cỡ rõ ràng: Giường cao là giường làm cao hơn tám ngón Như Lai. Mỗi ngón Như Lai bằng 1 tấc, vậy tám ngón Như Lai là tám tấc, giường làm cao hơn tám tấc là giường cao, người tu sĩ không được nằm. Trong Giới luật, có người dịch là tám lóng tay Như Lai, mỗi lóng tay 2 phân. Như vậy giường chỉ cao có 1 tấc 6 phân. Giường cao có 1 tấc 6 thì không thể gọi là giường, mà gọi là phản. Cho nên theo Thầy nghĩ, tám ngón Như Lai là đúng, còn tám lóng ray Như Lai là sai.

Câu hỏi 9: Xin Thầy cho con biết khi 2 người cúi chào nhau, con thấy có người chào rất sâu (90 độ), có người cúi 20 - 30 độ, còn con chào nghiêng đầu 45 độ, vậy thì chào sâu là chào bao nhiêu độ vậy hả Thầy?

Câu hỏi 10: Xin Thầy chỉ dạy cho con hiểu rõ (102) đoạn văn cuối trong bài “Có sống đạo mới vui đời” có nghĩa là gì?

Đáp 10: Đạo Phật lấy Giới luật Đức hạnh làm cuộc sống của mình, cho nên người nào sống đạo đức Nhân Bản - Nhân Quả không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh, thì cuộc đời họ mới có sự an vui chân thật, vì thế câu kinh này dạy: “Có sống đạo mới vui đời”. Đạo đức là GIỚI LUẬT ĐỨC HẠNH.

Câu hỏi 11: “Nhìn nhận sự tương quan sinh tồn, chí nhân khổ cái khổ của người, vui cái vui của muôn loài, nên lợi người trước mình. Cái vui này là cái vui vô lượng”.

Theo con hiểu, khi thấy ai khổ, mình cố gắng giúp người ta hết khổ trước, và khi thấy ai vui thì lúc đó mình mới vui; nghĩa là chỉ nên nghĩ đến người trước. Tâm mình đã thanh thản rồi, bất động rồi thì đâu còn vui buồn gì nữa, nhưng mình lấy các đối tượng khổ vui của người khác để sống hòa đồng, biết thương yêu người, giúp đỡ họ và an vui với họ. Có sống với người, tạo thêm niềm vui cho người, cho mình thì cuộc sống thêm vui chứ sao, phải không Thầy? Đâu phải nói là tu xong rồi không còn biết vui buồn gì nữa, thì có lẽ trở thành cây đá rồi. Xin Thầy giải thích rõ cho con thêm.

Đáp 11: Đúng! Con (103) nói rất đúng. Người tu sĩ Phật giáo thấy cái ác, cái khổ của người liền tìm cách khuyên ngăn đừng làm ác, và giúp cho người thoát khổ, để đem lại cho người nguồn vui hạnh phúc, chứ không làm cho người khổ, hoặc bới móc chuyện xấu của người, hoặc nói xấu, hoặc nói thêu dệt, thêm bớt, hoặc nói ly gián, v.v…​ Cho nên, người tu sĩ Phật giáo lấy cái vui của người, và lấy cái thiện để chuyển hóa cái khổ của người, để làm nguồn vui chung cho mình, cho người. Người tu sĩ Phật giáo không có cái vui riêng cho mình. Vì vui buồn đối với người tu sĩ Phật giáo chỉ là pháp vô thường, nên chẳng vui cũng chẳng buồn, lúc nào thân tâm cũng thanh thản, an lạc và vô sự mà thôi.

Câu hỏi 12: Vì Phật dạy không làm khổ mình, khổ người, khi mình hy sinh cứu người và cứu vật, bị tật nguyền hay hy sinh mà không muốn làm khổ mình, thì mình phải quán xét làm sao?

Đáp 12: Người tu sĩ Phật giáo đã biết thân, thọ, tâm và pháp là vô thường, không có cái nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta, thì hy sinh giúp người thoát khổ, thoát chết, nhưng tâm vẫn bất động. Mà tâm bất động thì thân này có chết, có tật nguyền, có sao đi nữa thì họ có buồn khổ đâu. (104) Cho nên họ dám xông pha vào lửa đỏ, vào sóng to lũ lụt để cứu người mà không hề sợ hiểm nguy đến tính mạng của mình, như những câu chuyện: Vết thẹo của người mẹ, Con chim ưng của Thành Cát Tư Hãn, và cái chết thản nhiên của cô gái Evin trong chiếc tàu từ từ chìm xuống đáy biển mang theo cô…​ Khi quán xét các pháp vô thường thì vết thẹo trên gương mặt của người mẹ, cái chết của con chim ưng và cái chết của cô Evin thì đâu có nghĩa gì nữa. Còn những người không hiểu các pháp vô thường thì cho đó là làm khổ mình, nhưng khi họ hiểu các pháp vô thường, vô ngã thì tâm họ bất động. Tâm họ bất động thì cái thọ khổ không tác động vào tinh thần sắt đá của họ.

Tu hành muốn đạt được chỗ tâm bất động không phải dễ, nhất là khi chúng ta đứng trước các loại cảm thọ của thân mà tâm bất động, đó là một loại Thiền định xả cảm thọ thì tâm mới bất động dễ dàng. Chỗ này nói thì dễ, nhưng tu tập cho đúng pháp mới đạt được.

Tâm bất động thuộc về Tâm, do tri kiến giới luật đức hạnh.

Tâm bất động thuộc về Thân, do tri kiến tỉnh thức Định Tứ Thiền.

Nhờ nhập vào Tứ Thiền, sức định lực của Tứ (105) Thiền quét sạch các cảm thọ nên tâm không còn cảm nhận thọ khổ, vì thế tâm mới bất động dễ dàng.

Còn có một tâm bất động, đó là ý chí ngút ngàn xem thường các cảm thọ. Mặc dù tâm chưa có Thiền định, nhưng nhờ Tín lực “chết bỏ” không sợ các cảm thọ, nên thản nhiên trước sự đau đớn tận cùng của sức chịu đựng bản thân.

Câu hỏi 13: Phải chăng mình nghĩ rằng mình rất tự hào về những điều mình đã làm, không hối tiếc, không coi trọng cái thân này, dù cho cái thân có tàn tật thì cũng không sao. Nhưng nếu cái thân này bị tàn tật do cứu người mà làm khổ gia đình mình phải chăm sóc cho mình, thì mình lại làm khổ người thân của mình, vậy thì làm sao đây? Xin Thầy chỉ dạy rõ cho con biết. Vì đức Phật nói: “Phải hùng lực cứu người, cứu vật”. Vậy trước khi cứu người cứu vật, có phải tư duy suy nghĩ hay không?

Đáp 13: Người tu sĩ Phật giáo bao giờ cũng trang bị tri kiến hiểu biết của mình đầy đủ, để khi lâm trận chỉ còn chiến đấu và giành phần thắng về mình…​ Như quý vị đã biết: Lớp học Giới luật đức hạnh là lớp trang bị kiến thức, không những để học những bài học, mà còn áp dụng những bài học (106) đạo đức đó vào đời sống hàng ngày, để khi hữu sự, tức là có sự việc xảy ra là tự ứng phó một cách tự nhiên, tức là phản xạ tự nhiên, chứ không cần phải quán xét suy tư; vì quán xét suy tư thì quá chậm.

Trang bị Đức Hiếu Sinh cho các con, khi các con hy sinh cứu người, thân các con có tàn tật hay nằm bệnh viện, những người thân có nuôi các con, có giúp đỡ cho các con bất cứ sự nặng nhọc nào, thì họ cũng vui sướng có người con, hay người thân có tâm hồn yêu thương cao cả, biết hy sinh vì mọi người. Tuy cơ thể có các cảm thọ khổ, song tinh thần các con hạnh phúc vô cùng. Một cháu bé 13 tuổi cứu thoát 11 người chết đuối. Một chàng thanh niên xông vào lửa đỏ cứu 6 người thoát chết thiêu; chàng bị phỏng nặng nhưng tinh thần chàng rất hạnh phúc và mọi người ai cũng quý trọng. Trong thời gian chữa trị, mọi chi phí thuốc men chàng đều được mọi người lo lắng đầy đủ.

Làm việc thiện trong hoàn cảnh nào cũng có đầy đủ phước báo, cho nên nhân nào quả nấy, chúng ta cứ hành thiện, cứ thương yêu mọi người rồi mọi người sẽ thương yêu chúng ta. (107)