Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này không giữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo khác, tác động vào đời sống xã hội.
Tuy nhiên, tùy ở từng giai đoạn lịch sử của dân tộc mà học thuyết tư tưởng, tôn giáo này hay học thuyết tư tưởng, tôn giáo khác nắm vai trò chủ đạo, có tác động mạnh đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của người Việt, như Phật giáo ở thế kỷ thứ X - XIV, Nho giáo thế kỷ thứ XV - XIX, học thuyết Mác - Lênin từ giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX. Cho đến nay, những học thuyết này không giữ địa vị độc tôn mà song song cùng tồn tại với các học thuyết, tôn giáo khác, tác động vào đời sống xã hội.
Đối với một dân tộc, chữ viết là một thành tố vô cùng quan trọng. Do đó, ngay từ khi xâm lược nước ta và trong suốt một ngàn năm phương Bắc đô hộ, Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch đồng hóa, áp đặt chúng ta sử dụng chữ Hán với ý nghĩa như chữ quốc ngữ.
Tuy nhiên mưu đồ này đã bất thành. Người Việt dù dùng chữ Hán nhưng đã sáng tạo ra ngôn ngữ của riêng mình đó là chữ Nôm. Sự ra đời của chữ Nôm trên cơ sở cải biến từ chữ Hán được xem là một thành tựu quan trọng của văn minh Đại Việt. Bởi, chữ Nôm vừa mang đậm tính dân tộc (Nam Nôm) nhưng cũng chứa đựng văn hóa dân gian (nôm na) ở trong đó. Do đó, chữ Nôm cũng được xem là Quốc ngữ, Quốc âm của Việt Nam thời đó.
Mặc dù vậy ta không thể phủ nhận được sự chi phối, ảnh hưởng rất lớn của chữ Hán tới hệ thống văn học nghệ thuật và đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Từ chữ Hán, tiếng Hán mà ở Việt Nam biết tới thể thơ Đường Cổ trong văn học Trung Hoa. Trong đó, cơ sở tư tưởng của văn hoc nghệ thuật cũng song hành với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo. Tiếp theo sau đó là sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo tới dòng văn học yêu nước dân tộc và sự ra đời của tầng lớp Nho sĩ yêu nước mà tiêu biểu có Nguyễn Trãi là một đại diện.
Trung Quốc có rất nhiều những giáo lý và tư tưởng nổi tiếng. Rất nhiều trong số đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam như Phật giáo (Bắc Tông), các hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo giáo hay các tư tưởng về quản lý,… từ xa xưa. Và cho đến ngày nay những điều này vẫn còn ý nghĩa quan trọng trong các hoạt động học tập, nghiên cứu hay quản lý nhà nước.
Một trong số những ảnh hưởng sâu sắc nhất phải kể đến đầu tiên đó chính là Nho giáo. Nho giáo ra đời ở Trung Hoa, được biết tới là tư tưởng do Khổng Tử sáng lập. Nho giáo du nhập vào Việt Nam kể từ thời Bắc thuộc nhưng chỉ được thừa nhận một cách chính thức từ khi Nhà Lý cho xây dựng công trình Văn Miếu thờ Khổng Tử. Thời Lê là mốc đánh dấu sự ảnh hưởng sâu rộng của Nho giáo khi tư tưởng này phổ biến ở giai cấp thống trị và tầng lớp trí thức trong xã hội bấy giờ.
Y học cổ truyền Việt Nam hay ta vẫn thường gọi với cái tên “Đông y” được coi là một nhánh phát triển của y học Trung Hoa đã có niên đại hình thành hơn 3500 năm.
Tương tự như y học căn bản Trung Quốc, Đông y cũng hội tụ đủ yếu tố, hình thức trong điều trị như: Sự đa dạng của các loại thảo mộc, trị liệu bằng xoa bóp, cạo gió, châm cứu, bấm huyệt, vận khí công, nắn xương hay liệu pháp dinh dưỡng…
Nền y học Đông y phát triển gần như là song song với văn hóa của các nước Đông Á và nó đã được ứng dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống, nhờ đó mà ta thấy đây là một kho tàng phong phú tri thức về y học với lịch sử lâu dài. Đi sâu vào nghiên cứu thì có thể thấy cơ sở lý luận của Đông y được khởi nguồn từ quan niệm vũ trụ được chia làm hai phần, tượng trưng cho hai thái cực âm – dương và thuyết ngũ hành. Trong đó, cuốn “Hoàng đế nội kinh” và “Thương hàn luận” của Trương Trọng Cảnh được xem là “cái nôi” của những học thuyết của y học căn bản trong y học Trung Hoa.
Theo lý luận y học cổ truyền, sức khỏe là kết quả của sự tương tác giao thoa giữa những thực thể (cơ quan trong cơ thể) và các yếu tố bên ngoài cơ thể, kết hợp với sự tác động của những yếu tố gây bệnh tật. Do đó, chẩn đoán bệnh trong Đông y không chỉ là dựa trên những triệu chứng của cơ thể người bệnh thể hiện qua mạch đập, lưỡi, da, mắt… mà còn là xem xét các yếu tố như thói quen ăn uống, ngủ nghỉ và môi trường xung quanh người đó như thế nào.
Vấn đề điều trị trong Đông y không chỉ là uống thuốc gì mà còn là những phương pháp không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp, bấm huyệt, giác hơi… Trong đó, châm cứu được xem là tinh hoa vật lý trị liệu với niên đại hình thành từ rất lâu đời.
Châm cứu là liệu pháp tác động vào hệ thống kinh mạch vô cùng phức tạp trên cơ thể con người với hàng trăm huyệt vị khác nhau. Đông y cho rằng các huyệt vị và các đường kinh mạch có sự liên hệ, tác động mật thiết đến cơ quan tạng phủ trong cơ thể. Do đó, khi một cơ quan tạng phủ bị rối loạn thì có thể tác động vào các huyệt vị tương ứng trên cơ thể để điều trị.
Có một điều đặc biệt là hệ thống huyệt vị, kinh mạch trong cơ thể chỉ có thể được mô tả chi tiết qua phương pháp châm cứu trong Đông y. Điều này không thể thực hiện lại được trong giải phẫu sinh lý hiện đại hoặc nền tảng của Tây y.
Nhắc đến Đông y không thể không nhắc đến kho tàng thuốc Bắc đồ sộ. Đây là những vị thuốc có trong tự nhiên được khai thác và bào chế theo phương pháp y học Trung Hoa nhưng đã được cải tiến thêm bởi những thầy thuốc người Việt sao cho hợp đặc trưng khí hậu, văn hóa Việt Nam. Thuốc Nam được phân biệt với thuốc Bắc ở chỗ thuốc Nam là vị thuốc được khám phá trên chính lãnh thổ Việt Nam và được các thầy thuốc trong nước tìm tòi, khám phá ra. Tại Việt Nam phải kể đến những vị danh y được xem là tổ nghề như Danh y Tuệ Tĩnh, Thần y Lê Hữu Trác…
Sự ảnh hưởng về mặt giáo dục của văn hóa Trung Hoa có mối liên quan mật thiết với sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và Đạo giáo ở Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong chế độ khoa cử và sự phát triển của tầng lớp nho sĩ trong xã hội.
Theo đó, để xây dựng một thiết chế quân chủ tập quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, cũng như những nguyên lý cơ bản của phép trị nước thì tầng lớp thống trị đã biến Nho giáo thành một nhu cầu tư tưởng thiết yếu mà giải pháp được xem là chiến lược nhất là đánh vào chế độ khoa cử.
Theo các ghi chép lịch sử, ở thời Trần, chế độ khoa cử được tổi chức một cách rất quy củ với tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. 3 người đỗ đầu được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. (Sau đặt thêm một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp).
Từ các cuộc thi và ảnh hưởng của nó mà tầng lớp nho sĩ trong xã hội Việt Nam cũng ngày một phát triển. Nổi bật trong số đó phải kể đến những nhân tài của đất nước như: Lê Văn Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An…
“Thuận theo thời cuộc”, tầm ảnh hưởng của Nho giáo trong đời sống đã kéo theo nhu cầu học “chữ nho” hay ngoại ngữ chính là tiếng Trung Quốc bên cạnh việc học chữ Quốc ngữ trong các trường học nước ta thời bấy giờ.