Pháp Luật Về Hợp Đồng Thương Mại

Pháp Luật Về Hợp Đồng Thương Mại

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Hợp đồng xúc tiến thương mại

Hợp đồng dịch vụ xúc tiến thương mại là văn bản thỏa thuận giữa các bên về việc cung cấp các dịch vụ xúc tiến thương mại, quảng cáo nhằm nâng cao doanh số bán hàng, uy tín thương hiệu, năng lực cạnh tranh,... Hợp đồng xúc tiến thương mại được trình bày theo hình thức quy định của pháp luật Việt Nam, tuân thủ theo Bộ Luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan khác.

Hợp đồng xúc tiến thương mại bao gồm:

Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại.

Hợp đồng dịch vụ trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ.

Hợp đồng dịch vụ tổ chức, tham gia hội chợ, triển lãm thương mại.

Các loại hợp đồng thương mại khác

Ngoài các loại hợp đồng trên, hợp đồng thương mại còn có một số hình thức khác như:

Hợp đồng gia công trong thương mại.

Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá.

Hợp đồng nhượng quyền thương mại.

Hình thức các loại hợp đồng thương mại theo Luật Thương mại

Theo Luật Thương mại năm 2005 thì hợp đồng thương mại bao gồm các hình thức sau:

Hợp đồng mua bán hàng hóa là loại hợp đồng được xây dựng do có sự thỏa thuận giữa bên bán hàng và bên mua hàng. Bên bán có trách nhiệm chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua. Đồng thời bên mua sẽ nhận hàng và có trách nhiệm thanh toán cho bên bán.

Hợp đồng mua bán hàng hóa được sử dụng phổ biến.

Các nội dung trong hợp đồng như thời gian giao hàng, địa điểm, phương thức giao hàng, thanh toán, quyền và nghĩa vụ các bên,... được thỏa thuận trong hợp đồng. Hợp đồng mua bán hàng hóa có 2 loại:

Căn cứ theo Điều 513, Điều 514, Bộ Luật Dân sự năm 2015:“Điều 513. Hợp đồng dịch vụ

Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ.

Điều 514. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ

Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.”

Ví dụ hợp đồng dịch vụ: Hợp đồng dịch vụ phần mềm, hợp đồng dịch vụ tài chính, hợp đồng dịch vụ bảo hiểm,...

Hợp đồng về trung gian thương mại

Theo Luật Thương mại năm 2005, các hoạt động trung gian thương mại gồm đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại phát sinh trên cơ sở hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại.

Như vậy, hợp đồng trung gian thương mại là hình thức pháp lý của hoạt động dịch vụ trung gian thương mại.

Dựa vào quy định trên, có thể hiểu hợp đồng trung gian thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên, trong đó một bên là thương nhân đóng vai trò bên được ủy quyền thực hiện hoạt động trung gian thương mại như đại diện thương mại, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại vì lợi ích của bên ủy quyền với mục tiêu hưởng thù lao còn bên ủy quyền có nghĩa vụ trả tiền thù lao cho bên được ủy quyền.

Cũng theo quy định này, hợp đồng về trung gian thương mại gồm:

Hợp đồng đại diện cho thương nhân.

Hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.

Hợp đồng đại lý thuộc hợp đồng trung gian thương mại.

Sách pháp luật về hợp đồng Luật sư Trương Nhật Quang

Cuốn sách đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề pháp luật về hợp đồng của Việt Nam từ góc độ lý thuyết và thực tiễn, tập trung vào các giao dịch tài chính và mua bán doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.

Nội dung, hình thức của các loại hợp đồng thương mại

Các loại hợp đồng thương mại khác nhau sẽ có nội dung và hình thức khác nhau nhưng phải đảm bảo các điều khoản cơ bản sau:

Đối tượng, chủ thể của hợp đồng.

Thời gian, thời hạn của hợp đồng.

Phương thức, thời hạn thanh toán.

Phương thức giải quyết khi xảy ra tranh chấp.

Về hình thức hợp đồng, hợp đồng thương mại thường được thực hiện theo thỏa thuận của các bên, có thể thiết lập dựa trên lời nói, văn bản hay hành động thực tế.

Nội dung, hình thức hợp đồng thương mại.

Tuy nhiên, với những hợp đồng thương mại có giá trị lớn, các bên bắt buộc phải thỏa thuận hợp đồng dưới hình thức văn bản với các điều khoản cụ thể, rõ ràng.

Trên đây Thái Sơn cung cấp thông tin các loại hợp đồng thương mại theo quy định pháp luật hiện hành. Tùy theo tiêu chí mà hợp đồng thương mại sẽ được phân loại thành những hình thức khác nhau nên khi áp dụng, các bên cần nắm được bản chất của từng loại để thực hiện giao kết phù hợp.

Mục lục Mở đầu .1 1. Khái niệm và đặc điểm của môi giới thương mại 1 1.1 Khái niệm môi giới thương mại 1 1.2 Đặc điểm của môi giới thương mại 1 2. Hợp đồng môi giới thương mại 3 2.1 Chủ thể tham gia hợp đồng môi giới .3 2.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại 5 2.3 Chấm dứt hợp đồng môi giới 11 3. Các quy định về môi giới thương mại hiện hành cần xem xét sửa đổi, bổ sung 12 Kết luận .13 Tài liệu tham khảo 14

Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Mở đầu Phương thức kinh doanh thương mại qua trung gian thương mại chủ yếu bao gồm: các hoạt động đại diện thương mại, môi giới thương mại, ủy thác thương mại được coi là những phương thức kinh doanh truyền thống, được các thương nhân sử dụng khá sớm trong lịch sử phát triển thương mại và ngày nay vẫn được ưa chuộng. Việc sử dụng các dịch vụ trung gian thương mại có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thương nhân cũng như nền kinh tế quốc dân đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Chính vì vậy, trong bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu pháp luật về môi giới thương mại. 1. Khái niệm và đặc điểm môi giới thương mại 1.1 Khái niệm môi giới thương mại Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, môi giới được hiểu là người làm trung gian để cho hai bên tiếp xúc, giao thiệp với nhau. Tương tự với cách hiểu thông thường về môi giới, Điều 150 Luật thương mại (LTM) đã định nghĩa môi giới thương mại như sau: “Môi giới thương mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”. 1.2 Đặc điểm của môi giới thương mại Môi giới thương mại có những đặc điểm sau: - Chủ thể của quan hệ môi giới thương mại gồm bên môi giới và bên được môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân, có đăng kí kinh doanh để thực hiện dịch vụ môi giới thương mại và không nhất thiết phải có ngành nghề đăng kí kinh doanh trùng với ngành nghề kinh doanh của các bên được môi giới. Pháp luật hiện hành không quy định bên được môi giới có nhất thiết phải là thương nhân hay không. Trong hoạt động môi giới thương mại, không phải tất cả các bên được môi giới đề có quan hệ môi giới thương mại với bên môi giới mà chỉ có bên được môi giới nào kí hợp đồng môi giới với bên môi giới thì giữa họ mới phát sinh quan hệ môi giới thương mại. Ví dụ: Công ty Nhà nước A kí hợp đồng thuê công ty Trách nhiệm hữu hạn B làm môi giới trong việc tiêu thụ sản phẩm do công ty sản xuất ra, giữa công ty A và công ty B phát sinh quan hệ môi giới thương mại. Công ty B tìm được công ty C có nhu cầu mua các sản phẩm của công ty A và giới thiệu công ty A với công ty C. Do đó, giữa B và C có thể tồn tại hợp đồng môi giới hoặc không, nếu B và C kí hợp đồng môi giới thì giữa họ cũng phát sinh quan hệ môi giới thương mai. Khi sử dụng dịch vụ môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ với các bên được môi giới và làm nhiệm vụ giới thiệu các bên được môi giới với nhau. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Nếu họ thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với khách hàng thì họ sẽ trở thành bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới. Tuy nhiên, LTM của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện. - Nội dung hoạt động môi giới rất rộng, bao gồm nhiều hoạt động như: tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, tiếp xúc các bên được môi giới soản thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Mục đích của hoạt đồng môi giới là các bên được môi giới giao kết hợp đồng với nhau. Môi giới thương mại là một hoạt động kinh doanh thuần túy. Mục đích của bên môi giới thương mại khi thực hiện việc môi giới là tìm kiếm lợi nhuận. Bên môi giới thông thường được hưởng thù lao khi các bên được môi giới đã giao kết hợp đồng với nhau. - Phạm vi của môi giới thương mại theo LTM năm 2005 được mở rộng chứ không bị bó hẹp như quy định của LTM năm 1997 chỉ bao gồm những hoạt động môi giới mua, bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ thương mại liên quan đến mua bán hàng hóa. Do đó, môi giới thương mại bao gồm tất cả các hoạt động môi giới có mục đích kiếm lợi như môi giới mua bán hàng hóa, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới tàu biển, môi giới thuê máy bay, môi giới bất động sản…Tuy nhiên, LTM là luật chung điều chỉnh các hoạt động thương mại nên những quy định về môi giới thương mại trong luật này chỉ mang tính nguyên tắc còn các hoạt động môi giới trong từng lĩnh vực riêng biệt lại được luật chuyên ngành quy định cụ thể. Ví dụ: môi giới bảo hiểm được quy định trong Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, môi giới hàng hải được quy định trong Luật hàng hải năm 2005… - Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới, bên môi giới phải là thương nhân còn bên được môi giới không nhất thiết phải là thương nhân (vì pháp luật không quy định gì về điều kiện bên được môi giới). Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới nhằm chắp nối quan hệ giữa các bên được môi giới với nhau. Hình thức của hợp đồng môi giới thương mại không được LTM 2005 quy định. LTM 2005 đã bỏ quy định về nội dung chủ yếu của hợp đồng môi giới nhưng xuất phát từ bản chất của quan hệ môi giới và để hạn chế tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng môi giới, khi giao kết hợp đồng này các bên có thỏa thuận những điều khoản về nội dung cụ thể của việc môi giới, mức thù lao mà bên môi giới sẽ được nhận, thời hạn thực hiện hợp đồng môi giới, quyền và nghĩa vụ của các bên; trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng môi giới. 2. Hợp đồng môi giới 2.1 Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng môi giới Quan hệ môi giới thương mại phát sinh giữa bên môi giới và bên được môi giới, trong đó bên môi giới phải là thương nhân. LTM 2005 chỉ quy định chung chung bên môi giới phải là thương nhân mà chưa quy định cụ thể các điều kiện của thương nhân thực hiện hoạt động môi giới. Tuy nhiên, trong trường hợp môi giới hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện đòi hỏi bên môi giới phải có các điều kiện theo quy định của Nghị định 59/2006/NĐ-CP ngày 12/06/2006 và các luật chuyên ngành. Ví dụ, bên môi giới bảo hiểm phải là doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đáp ứng đầy đủ các quy định về điều kiện thành lập doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định hướng dẫn thi hành. Tổ chức kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã có đăng kí kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản theo quy định của pháp luật và phải có ít nhất một người có chứng chỉ môi giới bất động sản. Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật và có chứng chỉ môi giới bất động sản (Điều 8 Luật kinh doanh bất động sản 2006). Đối với bên được mô giới, các quy định của mục 2 chương V LTM 2005 về môi giới thương mại không thể hiện bên được môi giới có nhất thiết phải là thương nhân hay không? Nhưng nếu căn cứ vào Điều 3 khoản 11 định nghĩa về các hoạt động trung gian thương mại trong đó có hoạt động môi giới thương mại thì bên được môi giới cũng phải là thương nhân. Điều này dẫn đến những bất hợp lí sau: (i) bên được môi giới là chủ thể có nhu cầu sử dụng dịch vụ môi giới chứ không thực hiện dịch vụ này do đó không thể bắt buộc phải là thương nhân; (ii) nếu bên được môi giới cũng là thương nhân thì quan hệ giữa bên môi giới (là thương nhân hoạt động thương mại) với bên được môi giới không phải là thương nhân sẽ không phải là môi giới thương mại và sẽ không chịu sự điều chỉnh của LTM mà chỉ chịu sự điều chỉnh của BLDS. Các quy định về môi giới thương mại sẽ không được áp dụng cho bên là thương nhân. Theo LTM 2005 và các luật hiện hành khác quy định về môi giới thương mại như Bộ luật hàng hải, Luật kinh doanh bảo hiểm, chức năng của người môi giới thương mại ở Việt Nam tương tự người môi giới thương mại theo pháp luật của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Điều đó có nghĩa là, khi thực hiện hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới nhân danh chính mình để quan hệ với các bên được môi giới và là người trung gian cho các bên trong quan hệ giao dịch thươm mại, giới thiệu cho các bên cơ hội giao kết hợp đồng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ có liên quan đến những giao dịch thương mại. Đó là những hoạt động trung gian nhằm chắp nối cho những giao dịch rất phong phú và đa dạng, có thể là những giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng các dịch vụ thương mại để giúp các bên được môi giới đến với nhau. Khi thực hiện dịch vụ môi giới, bên môi giới có thể thực hiện các hoạt động tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên được môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi giới, thu xếp để các bên được môi giới tiếp xúc với nhau, giúp đỡ các bên soant thảo văn bản hợp đồng khi họ yêu cầu. Sau đó, các bên được môi giới trực tiếp giao kết hợp đồng với nhau. Nếu bên môi giới thay mặt bên được môi giới kí hợp đồng với bên thứ ba thì họ sẽ trở thàn bên đại diện không đúng thẩm quyền của bên được môi giới. Tuy nhiên, LTM 2005 của Việt Nam không cấm bên được môi giới ủy quyền cho bên môi giới kí hợp đồng với khách hàng. Trong trường hợp này, bên môi giới hành động với tư cách của bên đại diện. Quan hệ môi giới thương mại được thực hiện trên cơ sở hợp đồng môi giới. Hợp đồng môi giới được giao kết giữa bên môi giới và bên được môi giới. Đối tượng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp cơ hội giao kết hợp đồng giữa bên được môi giới với bên thứ ba. Về hình thức, LTM 1997 quy định rõ ràng, hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản (Điều 94). LTM 2005 không quy định về hình thức của hợp đồng môi giới thương mại trong khi hầu hết các hoạt động trung gian thương mại như ủy thác, đại diện, đại lý thương mại lại quy định phải lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào khoản 1 Điều 153 LTM 2005 thì hợp đồng môi giới phải được lập thành văn bản, vì điều này quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Do đó, LTM cần phải quy định rõ về hình thức của hợp đồng môi giới, tránh dẫn đến cách hiểu khác nhau về vấn đề này. 2.2 Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng môi giới thương mại Quyền và nghĩa vụ của bên môi giới và bên được môi giới khi tham gia quan hệ hợp đồng môi giới được quy định trong LTM 2005, trong các luật về những hoạt động môi giới đặc thù như: Môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải, môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản. Theo các văn bản này, nhìn chung bên môi giới có những nghĩa vụ sau: - Bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu được giao để thực hiện việc môi giới và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành viêch môi giới; - Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới; - Chịu trách nhiệm về tư cách pháp lí của các bên được môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ; - Không được tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Như vậy, khi thực hiện hoạt động môi giới, bên môi giới được quyền yêu cầu bên được môi giới cung cấp mẫu hàng hóa, tài liệu để thực hiện việc môi giới. Khi bên được môi giới cung cấp những tài liệu đó, thì bên môi giới phải có nghĩa vụ bảo quản nó và phải hoàn trả cho bên được môi giới sau khi hoang thành việc môi giới. Nhằm bảo vệ quyền lợi của bên được môi giới, ngăn chặn khả năng bên môi giới thông đồng với bên thứ ba, Điều 151 khoản 2 LTM 2005 quy định: “bên môi giới không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm phương hại đến lợi ích của bên được môi giới”. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, quy định này dẫn đến cách hiểu là bên môi giới sẽ không được quyền cung cấp thông tin có liên quan đến giao dịch mà họ chắp nối bởi trong nhiều trường hợp, việc cung cấp thông tin cho bên thứ ba có thể làm phương hại lợi ích của bên được môi giới. Do đó, quy định này có thể cản trở hoạt động môi giới trung thực của bên môi giới, làm cho hoạt động môi giới thương mại khó có thể trở thành chuyên nghiệp. Pháp luật của một số nước như Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999 nhìn nhận vấn đề này thoáng và rõ ràng hơn nhiều. Điều 425 Luật này quy định: “bên môi giới có nghĩa vụ cung cấp thông tin chính xác liên quan đến các vấn đề cần thiết cho việc giao kết hợp đồng dự định”. Quy định như vậy vừa rõ ràng, vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa của nghề hoạt động môi giới. Sự chính xác của thông tin mà bên môi giới đưa ra thể hiện ở chỗ họ phải cung cấp một cách đầy đủ những tài liệu do mình nhận được từ bên được môi giới. Ngoài ra, sự chính xác của thông tin còn bao gồm tính trung thực, khách quan của thông tin mà bên môi giới cung cấp. Quy định này không làm mất đi sự chủ động, tính độc lập và chuyên nghiệp của bên môi giới do họ vẫn có quyền tìm hiểu, thu thập thông tin kiểm chứng, để bổ sung vào những gì mà bên được môi giới trao cho để cung cấp cho khách hàng của mình. Trong quá trình môi giới, người môi giới phải chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên tham gia giao dịch mà họ dự định chắp nối. Do chỉ là người trung gian đứng giữa trong quan hệ giao dịch thương mại nên bên môi giới không phải chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của các bên được môi giới. Tuy nhiên, quy định về bảo đảm tư cách pháp lý của các bên được môi giới có lẽ chỉ phù hợp đối với dịch vụ môi giới mà bên được môi giới là thương nhân còn trong dịch vụ môi giới mà bên môi giới được môi giới là cá nhân (không có tư cách pháp nhân) việc xác định tư cách pháp lý của các bên được môi giới là rất khó và thực sự không cần thiết. Nhiệm vụ của người môi giới là làm sao dể các bên đi đến thống nhất thỏa thận ký kết hợp đồng. Còn việc hợp đồng được thực hiện như thế nào thì không phải là trách nhiệm của họ. Hơn nữa để bảo đảm tính khách quan, trung thực trong hoạt động môi giới, pháp luật cũng quy định bên môi giới không được tham gia vào thực hiện hợp đồng giữa các bên được môi giới, trừ trường hợp có sự ủy quyền của bên được môi giới. Khi người môi giới được người được môi giới ủy quyền thực hiện hợp đồng thì giữa họ nảy sinh một quan hệ khác đó là quan hệ ủy quyền, chứ không phải là quan hệ môi giới. Bên cạnh những nghĩa vụ phải thực hiện, bên môi giới được hưởng một số quyền rất quan trọng và tương ứng với những quyền này là nghĩa vụ của bên được môi giới. Quyền quan trọng đầu tiên của bên môi giới là quyền hưởng thù lao và tương ứng với nó là nghĩa vụ trả thù lao của bên được môi giới. Thù lao môi giới là khoản tiền mà bên được môi giới phải tra cho bên môi giới khi bên môi giới đem đến cho bên được môi giới một cơ hội giao kết hợp đồng dự định. Khoản 1 Điều 153 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký hợp đồng với nhau”. Quy định này bảo đảm cho bên môi giới có trách nhiệm đối với bên hành vi của mình. Chỉ khi hoạt động trung gian môi giới có kết quả thì bên môi giới mới được hưởng thù lao (nếu các bên không có thỏa thuận khác). Dưới góc độ thực tiễn và pháp lý, việc xác định thời điểm được hưởng thù lao trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác sẽ hạn chế việc bên được môi giới trốn tránh nghĩa vụ trả thù lao trong quan hệ môi giới. Một quyền khác của bên môi giới là quyền được thanh toán các chi phí phát sinh liên quan đến việc môi giới. Điều 154 LTM 2005 quy định: “trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên được môi giới phải thanh toán các chi phí hợp lí liên quan đến việc môi giới, kể cả khi việc môi giới không mang lại kết quả cho bên được môi giới”. Hiện nay, ở Việt Nam cũng như nhiều nước, thương nhân thực hiện dịch vụ môi giới như: môi giới bất động sản, môi giới bảo hiểm, môi giới mua bán doanh nghiệp thường thu một khoản phí nhất định có tính tượng trưng của bên được môi giới để trang trải trong hoạt môi giới gọi là phí giao dịch. Đây có thể hiểu là chi phí tối thiểu của bên môi giới trong việc tìm kiếm đối tác cho người nhờ môi giới trong một khoản thời gian nhất định. Nếu bên được môi giới không sử dụng dịch vụ của bên môi giới thì khoản thu đó có thể được xem là khoản chi phí cho việc môi giới, nhưng không có kết quả. Nhưng nếu giao dịch thành công thì bên môi giới sẽ được hưởng thù lao. Tuy nhiên, LTM 2005 không có sự phân định rõ ràng khi nào thì bên môi giới được hưởng thù lao và khi nào thì được hưởng chi phí môi giới. Trong khi đó, luật này không có quy định bên môi giới phải tiến hành một công việc cụ thể nào thì việc tính chi phí môi giới sẽ không dễ dàng khi các bên không có thỏa thuận về vấn đề này. Vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc năm 1999. Khác với quy định của pháp luật Việt Nam, việc phân định quyền hưởng thù lao môi giới và quyền hưởng chi phí môi giới được Luật hợp đồng Trung Quốc xác định hết sức rõ ràng. Điều 426 Luật này có quy định: “Một khi bên môi giới đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định, khách hàng phải trả thù lao phù hợp với hợp đồng môi giới…trường hợp bên môi giới tạo các điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định, các chi phí môi giới sẽ do bên môi giới tự chịu”. Điều 427 luật này, xác định rõ hơn: “Trong trường hợp bên môi giới không tạo các điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng dự định thì không có quyền yêu cầu trả thù lao với điều kiện khách hàng phải bồi hoàn chi phí môi giới cần thiết mà bên môi giới phải chịu”. Như vậy, theo Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999, bên môi giới không bao giờ được hưởng đồng thời hai khoản thù lao và chi phí môi giới. Trong thực tế cũng có trường hợp bên môi giới ký hợp đồng môi giới với cả hai bên được môi giới. Khi đó bên môi giới có được hưởng thù lao môi giới theo hợp đồng đã ký với cả hai bên hay không và thù lao sẽ được tính như thế nào? Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ về vấn đề này. Điều này cũng có nghĩa bên môi giới có thể được hưởng cả hai khoản thù lao và chi phí theo thỏa thuận trong khi họ chỉ phải chắp nối một quan hệ hợp đồng. Luật hợp đồng Trung Quốc 1999 không cho phép bên môi giới được hưởng thù lao như vậy trong một số trường hợp nhất định. Điều 426 Luật này quy định “trường hợp bên môi giới đã tạo những điều kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng bằng cách cung cấp các dịch vụ trung gian có liên quan, thì thù lao trả cho bên mối giới phải được chia đều cho các bên của hợp đồng đó cùng chịu”. Như vậy bên môi giới không có quyền yêu cầu đồng thời được trả chi phí nếu việc trả thù lao đã được thực hiện bởi một bên giao kết hợp đồng. Ngay khi cả hai bên được môi giới là khách hàng của bên môi giới cùng tham gia một giao dịch thương mại thì bên môi giới cũng chỉ được hưởng thù lao xét trong mối quan hệ giao địch thương mại chứ không được hưởng thù lao xét trong mối quan hệ hai hợp đồng môi giới. Một vấn đề khác liên quan đến quyền hưởng thù lao của bên môi giới là các trường hợp loại trừ quyền hưởng thù lao của chủ thể này. Vấn đề này chưa được quy định trong LTM 2005. Trong thực tế nảy sinh nhiều trường hợp, sau khi giao kết hợp đồng các bên được môi giới mới phát hiện bên môi giới không hành động trung thực, gây thiệt hại cho bên được môi giới thì bên môi giới có được hưởng thù lao hay không? Pháp luật một số nước, ví dụ như Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999, tại Điều 425 quy định rõ về trường hợp loại trừ quyền hưởng thù lao của bên môi giới: “trường hợp bên môi giới cố tình che giấu bất kỳ một hiện thực quan trọng nào hoặc cung cấp thông tin sai liên quan đến việc giao kết hợp đồng dự định, và do đó gây thiệt hại cho quyền lợi của khách hàng thì không có quyền yêu cầu thù lao và phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại đó”. Ở Mỹ nếu bên môi giới không trung thực cũng sẽ không được hưởng thù lao. Pháp luật Việt Nam hiện hành chưa quy định cụ thể về vấn đề này. Trong nhiều trường hợp sẽ có nhiều ý kiến hay những quan điểm khác nhau; có ý kiến cho rằng một khi bên môi giới đã gây thiệt hại cho bên được môi giới thì cho dù bên môi giới có giao kết được hợp đồng theo đúng như các quy định của môi giới thì bên môi giới cũng không được hưởng thù lao do họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, có ý kiến lại cho rằng, pháp luật quy định bên môi giới được hưởng thù lao từ thời điểm cácbên được môi giới ký kết hợp đồng với nhau. Vì vây trong trường hợp các bên không có thỏa thuận nào khác, việc các bên được bên môi giới tạo cầu nối để ký kết hợp đồng với nhau sẽ làm phát sinh quyền được hưởng thù lao của bên môi giới, bất kể trước đó bên môi giới có gây thiệt hại cho bên được môi giới hay không. Còn việc bên môi giới gây thiệt hại cho bên được môi giới thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng. Trên cơ sở những quy định của luật thực định tôi cho rằng ý kiến thứ hai là đúng. Tuy nhiên, để có cơ sở pháp lý cần có quy định điều chỉnh của pháp luật rõ hơn về vấn đề này. LTM Việt Nam cũng có xu hướng không quy định quyền được hưởng lợi ích của bên được môi giới từ bên môi giới. Điều này cũng đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng việc quy định như vậy có nghĩa là trong hợp đồng môi giới, bên được môi giới có thể được hưởng hoặc không được hưởng từ bên môi giới những cơ hội giao kết hợp đồng cần thiết, mà không bắt buộc bên môi giới phải cung cấp. Tuy nhiện, có người lại cho rằng đây là thiếu sót của nhà làm luật vì không thể có một quan hệ hợp đồng nào mà quyền và nghĩa vụ của các bên không tương xứng như vây. Cần phải khách quan nhìn nhận rằng việc thiếu những quy định như vây là một hạn chế của LTM 2005. Bên môi giới là bên chắp nốt nhưng quan hệ, tạo ra các quan hệ giao dịch thương mại giữa các bên có nhu cầu. Thực tế bên môi giới nhận tài liêu, thông tin và mang những tài liệu, thông tin ấy đi mời chào, tìm kiếm, giới thiệu cho bên được môi giới thì có thể hiểu là bên được môi giới đã sử dụng dịch vụ của bên môi giới trong việc tìm kiếm đối tác. Vì vậy cho dù không tìm kiếm được đối tác thì bên được môi giới cũng phải có ý nghĩa trả thù lao hoặc chi phí cho bên môi giới. Trong trường hợp này pháp luật chưa phân biệt giới hạn của việc sử dụng dịch vụ môi giới và mục đích mà bên môi giới đặt ra. 2.3 Chấm dứt hợp đồng môi giới LTM 2005 không quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, căn cứ vào Điều 424 BLDS 2005 về các trường hợp chấm dứt hợp đồng dân sự thì hợp đồng môi giới thương mại chấm dứt theo thỏa thuận của các bên và trong những trường hợp sau: - Hợp đồng môi giới hết thời hạn; - Mục đích môi giới đã hoàn thành; - Một trong các bên tham gia hợp đồng chết, mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự,bên môi giới mất tư cách thương nhân; - Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện. LTM hiện hành không quy định về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng của các bên tham gia hợp đồng môi giới thương mại. Tuy nhiên, hợp đồng này là một loại hợp đồng dịch vụ nên căn cứ theo Điều 525 BLDS 2005, bên được môi giới có quyền đơn phương chấm dứt việc thực hiện hợp đồng nếu việc tiếp tục thực hiện dịch vụ không có lợi cho mình nhưng phải thông báo cho bên môi giới viết trước một thời gian hợp lý và thanh toán tiền công cho phần dịch vụ đã tiến hành và bồi thường thiệt hại. Nếu bên được môi giới không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng theo thỏa thuận thì bên môi giới có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. 3. Các quy định về môi giới thương mại hiện hành cần xem xét sửa đổi, bổ sung một số vấn đề sau: Thứ nhất, xác định rõ điều kiện chủ thể tham gia quan hệ môi giới thương mại Là một loại hoạt động trung gian thương mại, quan hệ môi giới thương mại cũng được phát sinh giữa bên thuê dịch vụ (bên được mô giới) và bên thực hiện dịch vụ (bên môi giới). So sánh với các hoạt động trung gian thương mại khác được quy định trong LTM 2005 như: hoạt động đại diện cho thương nhân, ủy thác mua bán hàng hóa, đại lý thương mại, có thể thấy trong hoạt động môi giới thương mại luật chỉ quy định điều kiện của bên môi giới mà không quy định điều kiện của bên được môi giới, còn các hoạt động trung gian thương mại khác thì LTM quy định điều kiện của các bên thuê dịch vụ và bên thực hiện dịch vụ. Do LTM 2005 không quy định điều kiện của bên được môi giới nên có ý kiến cho rằng quan hệ môi giới thương mại có thể phát sinh giữa bên môi giới (phải là thương nhân) còn bên được môi giới là bất cứ ai. Để có cơ sở pháp lý trong việc xác định hoạt động nào là hoạt động môi giới thương mại, tránh những tranh cãi từ nhiều ý kiến quan điểm không cần thiết, LTM cần có các quy định rõ ràng hơn về điều kiện của bên được môi giới trong hoạt động trung gian thương mại. Việc quy định hoạt động môi giới thương mại phát sinh giữa bên môi giới là thương nhân có đăng ký kinh doanh ngành ngề dịch vụ môi giới thương mại với bên được môi giới (không nhất thiết phải là thương nhân). Thứ hai, LTM 2005 không quy định về hình thức của hợp đồng môi giới thương mại, trong khi các hoạt động trung gian thương mại khác đều có quy định cụ thể về hình thức của hợp đồng phát sinh giữa bên thuê dịch vị và bên thực hiện dịch vụ trung gian. Vì vây, để có cơ sở pháp lý rõ ràng cho các bên tham gia quan hệ môi giới thương mại để dễ dàng xác lập hợp đồng, cần có những văn bản hướng dẫn thi hành LTM cần quy định hình thức hợp đồng môi giới thương mại sao cho phù hợp với hình thức của các loại hợp đồng phát sinh trong quan hệ trung gian thương mại khác như: hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại lý thương mại Thứ ba, cần quy định cụ thể rõ ràng hơn về chế độ thanh toán thù lao chi phí trong hoạt động môi giới. Trong hoạt động môi giới thương mại, thù lao là khoản tiền mà bên được môi giới phải trả cho bên môi giới khi giúp bên được môi giới giao kết hợp đồng với bên thứ ba. Trong trường hợp này, thù lao mà bên được môi giới trả cho bên môi giới đã bao gồm cả những chi phí mà bên môi giới bỏ ra để làm công biệc kết nối các giao địch cho bên được môi giới. Do đó trong quan hệ môi giới, bên môi giới sẽ chỉ được hưởng hoặc là thù lao hoặc là chi phí môi giới (trừ các trường hợp mà các bên thỏa thuận khác). Hiện tại các quy định về thù lao và chi phí môi giới trong LTM 2005 chưa thể hiện rõ vấn đề các bên không có thỏa thuận thì khi nào bên môi giới được hưởng thù lao môi giới, khi nào được hưởng chi phí môi giới. Theo quan điểm cá nhân, pháp luật cần quy định rõ bên môi giới được hưởng thù lao môi giới (bao gồm cả những chi phái đã bỏ ), nếu bên được môi giới giao kết được hợp đồng với bên thức ba, thù lao môi giới phải được chia đều cho các bên của hợp đồng đó cùng chịu. Trường hợp bên môi giới tạo điều kiện thuận lợi để bên được môi giới giao kết hợp đồng với bên thứ ba nhưng hợp đồng đó không được giao kết thì bên được môi giới phải bồi hoàn các chi phí môi giới cần thiết mà bên môi giới đã bỏ ra. Kết luận Tiêu thụ sản phẩm là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh. Để sản xuất kinh doanh phát triển, thương nhân phải biết lựa chọn phương thức phân phối, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa phù hợp, trong đó việc sử dụng hoạt động môi giới thương mại sẽ mang lại hiệu quả lớn cho các thương nhân trong quá trình tổ chức mạng lưới phân phối; tiêu thụ hàng hóa dịch vụ ở trong nước cũng như ở nước ngoài. Vì vầy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về môi giới thương mại là cần thiết, từ đó, pháp luật có các quy định điều chỉnh phù hợp hơn, tạo điều kiện cho hoạt động môi giới thương mại ngày một phát triển./. Tài liệu tham khảo Giáo trình Luật thương mại – Trường Đại học Luật Hà Nội Luật thương mại 2005 Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thương mại ở Việt Nam : Luận án tiến sĩ luật học / Nguyễn Thị Vân Anh Pháp luật về hoạt động trung gian thương mại : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Hiền Nga Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03/2006

Các file đính kèm theo tài liệu này: